Để giúp bạn đọc có cái nhìn thực tế hơn về tranh chấp kinh tế, luật sư A+ xin đưa ra 05 bản án thực tế về các vụ án tranh chấp kinh tế đã xảy ra tại Việt Nam. Nếu bạn đọc thắc mắc rằng liệu những bản án này sẽ có hướng giải quyết như thế nào, hãy cùng luật sư A+ xem ngay bài viết sau đây.
1. Case 1: Bản án số:13/2021/KDTM-ST Ngày29-10-2021 V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng của TAND TP. Hải Phòng
Cơ sở pháp lý: Điều 474, Điều 477, Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 130 Luật Đất đai năm 2003; Điều 122, Điều 123, Điều 124, Điều 715 Bộ luật Dân sự năm 2005; Án lệ số 08/2016/AL của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.
Nội dung vụ án:
Ngân hàng QN và bà NTHN và ông NTP(là hộ kinh doanh cá thể) đã ký Hợp đồng tín dụng với số tiền vay 500 triệu đồng dùng để bổ sung vốn lưu động phục vụ kinh doanh vật liệu xây dựng. Thời hạn vay là 12 tháng. Lãi suất: 13,29%/năm, điều chỉnh 03 tháng/1 lần, lãi suất điều chỉnh bằng lãi suất cho vay công bố tại thời điểm điều chỉnh. Lãi quá hạn là 150% lãi suất cho vay. Tài sản bảo đảm cho khoản vay là Quyền sử dụng 59m2 và tài sản gắn liền với đất là ngôi nhà 03 tầng diện tích xây dựng là 59m2 của ông NLQ1và bà NLQ2 tại thành phố Hải Phòng theo hợp đồng thế chấp.
Thực hiện hợp đồng tín dụng, Ngân hàng đã giải ngân cho ông NTP, và bà NTHN số tiền 500 triệu đồng. Tuy nhiên, bà NTHN và ông NTP đã không trả được nợ đúng hạn. Ngân hàng QN khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải trả nợ gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn với tổng số tiền tạm tính là 976.185.463đ. Trường hợp bị đơn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì ngân hàng được yêu cầu phát mại tài sản bảo đảm để xử lý thu hồi nợ. Trường hợp số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bảo đảm không đủ nghĩa vụ trả nợ, thì bị đơn phải có nghĩa vụ tiếp tục trả hết nợ cho ngân hàng.
Bị đơn là chị NTHN hiện hay vắng mặt tại địa phương, không cung cấp lời khai cho Tòa án; anh NTP hiện đang ở Canada, không có địa chỉ cụ thể, không cung cấp lời khai cho Tòa án.
TAND TP. Hải Phòng đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần QN, cụ thể:
1.Buộc bị đơn (anh NTP, chị NTHN) phải trả Ngân hàng Thương mại Cổ phần QN số tiền nợ tính đến ngày xét xử sơ thẩm là: 976.185.463đ trong đó: nợ gốc 391.478.975đ, lãi trong hạn 15.667.073đ, lãi quá hạn 569.039.415đ. Ngoài ra, bị đơn còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.
2. Trường hợp anh NTP, chị NTHN không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần QN thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần QN có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên, phát mại: Diện tích 59m2 và tài sản gắn liền là căn nhà 3 tầng theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà. Ông NLQ1, bà NLQ2 được quyền ưu tiên mua tài sản phát mại. Nếu số tiền thu được từ việc bán/xử lý tài sản bảo đảm không đủ thanh toán hết khoản nợ thì anh NTP, chị NTHN phải có trách nhiệm tiếp tục trả nợ cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần QN. Nếu số tiền thu được từ việc bán/xử lý tài sản bảo đảm còn thừa thì trả cho ông NLQ1, và bà NLQ2.

Xem thêm: Chi phí giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
2. Case 2: Bản án số:06/2021/KDTM-PT Ngày: 24-12-2021 V/v tranh chấp hợp đồng tư vấn, thiết kế của TAND Tỉnh Quảng Nam
Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 385, 401, 403 Bộ luật Dân sự; Điều 306 Luật Thương mại.
Nội dung vụ án:
Công ty Công ty Bất động sản A và Công ty J và C ký hợp đồng tư vấn, thiết kế, trong đó Công ty J và C sẽ cung cấp dịch vụ tư vấn thiết kế ý tưởng quy hoạch chi tiết Khu đô thị ven sông P cho Công ty Bất động sản A. Giá trị hợp đồng là 550 triệu đồng (chưa bao gồm VAT). Công ty Bất động sản A đã thanh toán 240 triệu đồng cho Công ty J và C.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty J và C đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình, bao gồm cả việc trình bày ý tưởng quy hoạch với UBND tỉnh Thừa Thiên Huế. Sau đó, Công ty J và C đã gửi báo cáo hoàn thiện sau cùng cho Công ty Bất động sản A và yêu cầu được nghiệm thu, thanh toán số tiền còn lại. Sau đó, Công ty Bất động sản A có gửi yêu cầu chỉnh sửa một số nội dung. Mặc dù, có một số nội dung yêu cầu chỉnh sửa không thuộc phạm vi của hợp đồng đã ký kết nhưng Công ty J và C đã thực hiện việc chỉnh sửa các nội dung theo yêu cầu và gửi các nội dung đã chỉnh sửa cho Công ty Bất động sản A. Sau khi gửi các nội dung chỉnh sửa, đồng thời gửi hồ sơ yêu cầu nghiệm thu và thanh toán đợt sau cùng nhưng không nhận được phản hồi, Công ty J và C khởi kiện yêu cầu Công ty Bất động sản A phải thanh toán số tiền còn lại trong hợp đồng là 365 triệu đồng (bao gồm tiền nợ giá trị thực hiện hợp đồng còn lại đợt 3 là 310 triệu đồng và 10% thuế GTGT là 55 triệu đồng).
Công ty Bất động sản A trình bày rằng sản phẩm của Công ty J và C chưa được chấp nhận bởi UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, ngoài ra Công ty J và C không chỉnh sửa phương án theo yêu cầu của Công ty Bất động sản A nên có cơ sở cho rằng Công ty J và C chưa hoàn thành phạm vi công việc của hợp đồng đã ký kết.
Tuy nhiên, tại cấp sơ thẩm, TAND Thị xã Điện Bàn, Tỉnh Quảng Nam đã ra bản án buộc Công ty TNHH Bất động sản A phải có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty TNHH J và C số tiền 365.000.000 đồng; trong đó, thanh toán giá trị thực hiện hợp đồng 310.000.000 đồng và 10% thuế GTGT là 55.000.000 đồng. Sau đó, Công ty Bất động sản A kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, đến phiên phúc thẩm, hai bên đã thương lượng được với nhau nên TAND cấp phúc thẩm đã tuyên Bản án, trong đó công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, cụ thể, Công ty Bất động sản A thanh toán cho Công ty J và C số tiền 288 triệu đồng, trong đó thanh toán giá trị thực hiện hợp đồng là 240 triệu đồng và 10% thuế giá trị gia tăng là 48.000.000 đồng.
3. Case 3: Bản án số: 07/2018/KDTM-PT Ngày 24/7/2018 V/v Tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại giao khoán, xây lắp của TAND Tỉnh Lâm
Cơ sở pháp lý: khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự
Nguyên đơn là Công ty cổ phần K và bị đơn là ông Nguyễn Văn H tranh chấp đối với 02 hợp đồng giao khoán thi công xây lắp gồm Hợp đồng giao khoán xây lắp Số 39/HĐXL đối với công trình xây dựng Nhà làm việc của Sở N tỉnh Lâm Đồng và Hợp đồng giao khoán xây lắp Số 05/HĐXL đối với công trình xây dựng Trường trung học cơ sở L. Trong đó, Công ty đã ứng cho ông H số tiền nhiều hơn giá trị Hợp đồng nên yêu cầu ông Nguyễn Văn H thanh toán số tiền 169.492.803đ theo Hợp đồng số 39 và 192.578.263đ theo Hợp đồng số 05. Tổng cộng số tiền 362.071.066đ.
Phía bị đơn ông Nguyễn Văn H có yêu cầu phản tố buộc Công ty phải thanh toán lại cho ông theo hai Hợp đồng trên với tổng số tiền là 817.199.000đ đối với việc kéo dài tạm ứng vốn là chi phí vật tư, chi phí nhân công, chi phí ca máy tăng cao mà công trình nhà nước phải bù giá.
Bản án sơ thẩm đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn. Tuy nhiên, TAND tỉnh Lâm Đồng xử phúc thẩm vụ án nhận định rằng để giải quyết tranh chấp thì các bên đương sự phải xuất trình đầy đủ các chứng cứ có liên quan đến quá trình thi công đối với từng hạng mục công trình và các Bản quyết toán công trình, các bên bản làm việc giữa Chủ đầu tư, Công ty và Đội thi công theo từng thời điểm cụ thể và từng khối lượng công trình cụ thể để làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, do các bên đương sự không tuân thủ theo quy định của Luật Xây dựng và quy định về quyết toán cụ thể của các Hợp đồng tranh chấp nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu phản tố của bị đơn.
Vì vậy, TAND tỉnh Lâm Đồng đã sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 14/2017/KDTM-ST ngày 23/8/2017của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu phản tố của bị đơn.

Xem thêm: Câu hỏi về tranh chấp kinh doanh thương mại
4. Case 4: Bản án số: 06/2022/KDTM-PT Ngày 04 –8–2022 V/v tranh chấp hợp đồng mua bán của TAND Tỉnh Bạc Liêu
Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm c, đ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 147, khoản 3 Điều 289 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 430, 440, 564 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 50 Luật Thương mại.
Công ty Tân H và Công ty Âu V ký kết Hợp đồng mua bán vật tư bao bì, túi nhựa các loại. Theo đơn đặt hàng của Công ty Âu V, phiếu giao nhận hàng, các hóa đơn giá trị gia tăng thể hiện Công ty Âu V đã nhận hàng theo đơn đặt hàng với tổng giá trị là 1.198.821.800 đồng. Công ty Âu V đã thanh toán cho Công ty Tân H được tổng số 150.000.000 đồng. Đối trừ số tiền đã thanh toán theo chứng từ thì Công ty Âu V còn phải thanh toán cho Công ty Tân H là 1.048.821.800 đồng. Tuy nhiên, Công ty Âu V xác định Công ty Tân H giao hàng không đủ với tổng giá trị hàng giao thiếu là 485.697.300 đồng.
Để chứng minh cho yêu cầu, Công ty Âu V cung cấp USB là file Camera ghi hình việc giao nhận hàng tại kho của Công ty Âu V. Hội đồng xét xử nhận thấy, các file Camera ghi hình do Công ty Âu V cung cấp ghi hình không liên tục và việc xem hình Camera không xác định được số lượng cụ thể hàng hóa giao nhận nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của Công ty Âu V. Công ty Âu V thừa nhận các hóa đơn, chứng từ giao nhận hàng thì Công ty Tân H đã giao đủ số lượng hàng hóa theo các đơn đặt hàng và nhân viên của Công ty Âu V được Công ty giao nhiệm vụ cũng đã ký tên nhận hàng nhập kho.
Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Tân H, buộc Công ty Âu V có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty Tân H số tiền 1.048.821.800 đồng là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
5. Case 5: Bản án số 01/2022/KDTM-PT Ngày: 21-01-2022 V/v Tranh chấp hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa của TAND Tỉnh Hà Tĩnh
Cơ sở pháp lý: Điều 116 117 Bộ luật Dân sự; Điều 155 159 Luật thương mại; Điều 116 Luật Doanh nghiệp; khoản 1, 4 Điều 91 khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 228, khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự
Công ty P và Công ty L ký kết các Hợp đồng ký gửi hàng hóa, theo đó Công ty P gửi hàng hóa của mình để trưng bày và bán tại Công ty L, hai bên đối chiếu hàng trưng bày 1 tháng 1 lần vào ngày 30 hàng tháng. Công ty cổ phần L có trách nhiệm thanh toán toàn bộ số hàng trưng bày thực bán trong tháng vào ngày 15 của tháng tiếp theo, không áp dụng công nợ, Công ty L được nhận chiết khấu từ giá niêm yết. Công ty P cho rằng Công ty L không thanh toán theo đúng cam kết, nên khởi kiện yêu cầu Tòa án giải
Tòa án cấp sơ thẩm đã có văn bản yêu cầu nguyên đơn giao nộp tài liệu chứng cứ chứng minh việc đặt hàng đối với hàng hóa không ký gửi; bảng kê chi tiết số hàng hóa đã gửi, số hàng đã bán, số hàng chưa bán; biên bản giao nhận hàng hóa; phiếu xuất kho, phiếu nhập kho; biên bản đối chiếu hàng trưng bày hàng tháng hoặc các tài liệu chứng cứ khác nhưng nguyên đơn không cung cấp được còn hóa đơn giá trị gia tăng do nguyên đơn cung cấp không có chữ ký xác nhận của bên mua hàng. Vì vậy không có cơ sở để hội đồng xét xử xem xét chấp nhận ý kiến của nguyên đơn về việc ông Nguyễn Bá Thanh B–Phó giám đốc Công ty cổ phần L ký kết đặt hàng một số hàng hóa ngoài các hợp đồng.
Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng đồng tình với hướng giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm, nên đã tuyên y án sơ thẩm, Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH P về việc yêu cầu bị đơn Công ty cổ phần L thanh toán số tiền 1 143 912 108 đồng.
Xem thêm: Bản án tranh chấp thương mại quốc tế
6. Luật sư tư vấn giải quyết các vụ án tranh chấp về kinh tế
Với đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm, giỏi, nhiệt huyết và tận tâm, Luật A+ tự hào là đơn vị hàng đầu tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, bao gồm các dịch vụ sau:
- Đánh giá các vấn đề pháp lý liên quan đến tranh chấp
- Tư vấn phương án giải quyết tranh chấp (hòa giải, khởi kiện..)
- Tư vấn thu thập và chuẩn bị chứng cứ
- Đại diện đàm phán tranh chấp
- Soạn thảo hồ sơ khởi kiện trong trường hợp khởi kiện
- Luật sư bảo vệ tại tòa án, trọng tài thương mại
Lý do chọn Luật A+
Kết quả bền vững, cam kết bảo vệ đến cùng.
Để được nhận kết quả tốt, theo đúng quy định pháp luật, nhận giá trị lâu dài mà không phải làm điều sai trái, không hối lộ, không e ngại sợ hãi cơ quan công quyền.
Sự tử tế.
Được chăm sóc như người thân, ân cần, chân thành, giải thích cặn kẽ, liên tục, luôn bên cạnh trong suốt quá trình thực hiện công việc. Chúng tôi luôn bên bạn lúc thăng hay trầm.
Giỏi chuyên môn
Luật sư nhiều kinh nghiệm, hiểu rõ cách vận hành pháp luật của cơ quan nhà nước, hiểu rõ quy luật vận hành của các mối quan hệ trong xã hội để giải quyết vụ việc trọn vẹn.
Hi vọng thông qua các vụ án tranh chấp kinh tế mà luật A+ đã chia sẻ, bạn đọc đã có cho mình những kinh nghiệm và hướng xử giải quyết các tranh chấp. Nếu có bất kỳ thắc mắc liên quan đến tranh chấp kinh tế, quý khách hàng vui lòng liên hệ luật sư A+ để được tư vấn và hỗ trợ.
Nội dung